Điều trị lao muộn, biến chứng nguy hiểm
GiadinhNet - Nhiều cha mẹ lầm tưởng những biểu hiện bệnh lý ban đầu của lao với các bệnh về đường hô hấp khác nên đã không đưa trẻ đi khám ngay.
Đến khi trẻ có triệu chứng thở khò khè, ho ra máu hoặc xuất hiện nổi hạch tại một vị trí nào đó thì bệnh đã nặng.
Ngộ nhận lao phổi với viêm phế quản
TS. BS Vũ Quang Diễn, Phó Giám đốc Bệnh viện 74 TƯ cho biết, người bệnh bị lao phổi thường ho khạc đờm kéo dài (trên hai tuần), ho nhiều về buổi sáng. 30-40% số bệnh nhân có ho ra máu, một số có tràn dịch, tràn khí màng phổi. Hầu hết các bệnh nhân thường nhập viện trong tình trạng bệnh đã nặng do ngộ nhận lao phổi với các bệnh thông thường như viêm phế quản, viêm phổi...
Bệnh lao phổi lây nhiễm chủ yếu qua đường không khí. Người lành khi tiếp xúc với người bị lao phổi dễ bị lây. Khoảng 5% số người hít phải vi khuẩn lao chuyển thành lao bệnh.
Điều trị lao phổi tại Bệnh viện Lao và Bệnh phổi TƯ. Ảnh: PT
TS.BS Hoàng Thị Phượng, Trưởng khoa Lao (BV Lao và Bệnh phổi TƯ) cho biết, lao là bệnh truyền nhiễm do vi trùng lao gây nên. Vi trùng lao thường xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp do hít phải các hạt nước bọt nhỏ li ti có chứa vi trùng lao. Khi vào cơ thể, vi trùng lao theo đường máu và bạch huyết đến cư trú, phát triển, làm tổn thương, đầu tiên là phổi, rồi các cơ quan khác như thận, xương, khớp, thanh quản, não...
Theo các bác sỹ, trẻ mắc bệnh lao nguy hiểm gấp nhiều lần người lớn do hệ thống đề kháng của cơ thể trẻ em còn yếu. Phát hiện một trẻ bị mắc lao thường chậm hơn so với người lớn, nên khi phát hiện được thì thường bệnh đã ở giai đoạn nặng. Việc điều trị cho trẻ cũng khó khăn hơn vì trẻ phải được uống một lượng thuốc khá lớn, liên tục, kéo dài.
"Việc tiêm phòng BCG cho trẻ là hết sức cần thiết", TS.BS Hoàng Thị Phượng cho biết.
Cách ly với nguồn lây
Qua khảo sát của Dự án phòng chống lao Quốc gia, nguy cơ nhiễm lao hằng năm ở trẻ em chiếm 1,67%. Tùy theo thể lao trẻ mắc phải có mức độ biến chứng khác nhau. Ở các thể lao nặng như lao kê, lao màng não, trẻ có thể bị chậm phát triển trí tuệ, thậm chí tử vong. Đối với lao cột sống, lao khớp, dù trẻ được điều trị khỏi bệnh hoàn toàn nhưng vẫn trở thành người tàn phế với những di chứng suốt đời như gù, liệt.
Theo TS.BS Hoàng Thị Phượng, hầu hết người dân nhiễm vi khuẩn lao do lây lan. Tuy nhiên không phải ai nhiễm vi khuẩn lao cũng mắc bệnh. Những người nhiễm vi khuẩn lao nhưng khỏe mạnh, có sức đề kháng cao sẽ không bộc phát bệnh. Lây truyền chỉ xảy ra ở người mắc bệnh lao hoạt động, còn bệnh lao tiềm ẩn thì khó có thể lây truyền.
Sự lây truyền bệnh còn phụ thuộc vào mức độ nhiễm khuẩn của người mắc lao, môi trường phơi nhiễm, thời gian phơi nhiễm và độc lực của vi khuẩn. Những người nguy cơ cao mắc lao là thường xuyên bị căng thẳng thần kinh, phụ nữ sau khi phẫu thuật, người có bệnh tiểu đường, nhiễm HIV, tiêm chích ma túy,... khi nhiễm vi trùng lao dễ tiến triển thành bệnh do trước đó cơ thể đã bị suy giảm miễn dịch. Khoảng 10% số người nhiễm lao trở thành lao bệnh. Ở những người nhiễm HIV/AIDS, tỷ lệ này lên tới 30%.
Theo TS.BS Hoàng Thị Phượng, để phòng tránh lây lan, khi tiếp xúc với người bệnh cần đeo khẩu trang. Ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp sẽ giết chết vi khuẩn lao do đó cần phơi nắng các vật dụng như màn, chiếu gối, quần áo... Nên khạc đàm vào ống nhổ có nắp đậy và đun sôi từ 5 - 10 phút là cách diệt vi trùng lao tốt nhất.
Những nguy hại khi phát hiện muộn
- Với lao phổi, tổn thương phổi rộng dẫn đến suy hô hấp, tâm phế mãn, điều trị ít hiệu quả thường dẫn đến tử vong.
- Bị lao màng não phát hiện điều trị muộn tỷ lệ tử vong khoảng 90%, 100% có di chứng như: Liệt, thiểu năng trí tuệ, bại não, tàn phế…
- Với lao hạch: Hạch sẽ dò ra ngoài da, lâu liền, sẹo rất xấu ảnh hưởng đến thẩm mỹ, lao từ tổ chức hạch có thể di căn đi các bộ phận khác gây bệnh.
- Lao xương khớp: Để lại di chứng dính, cứng khớp, dò xương khớp, gãy xương… Lao thận thì có biểu hiện đái buốt, đái rắt, đái máu.
TS.BS Bùi Quang Diễn
Phương Thuận
0 Response to "Điều trị lao muộn, biến chứng nguy hiểm"
Post a Comment